Chào bạn thân mến,
Chào mừng bạn đến với số newsletter thứ tư của Học Cách Học (HCH).
Sau khi có “thần dược” thúc đẩy động lực và thói quen, MỞ hi vọng bạn có thể cải thiện từng bước trong cách tiếp cận việc học và phương pháp học tập của mình.
Trong newsletter này, hãy cùng MỞ khám phá một “nỗi đau” khác là chứng “mất trí nhớ” kinh niên trong học tập nhé!
Chạm đáy nỗi đau - Học trước quên sau
Học trước quên sau là tình cảnh mà hẳn là ai trong chúng ta - từ học sinh sinh viên đến người đi làm - đều đã từng trải qua.
Bạn thấy mình đã hiểu rõ về lực hấp dẫn sau tiết Vật Lí nhưng sau đó vài ngày bạn dần quên mất khái niệm rồi đến công thức tính toán.
Bạn rời khỏi lớp Văn với sự tự tin đã nắm chắc kiến thức về phương pháp ẩn dụ và hoán dụ, nhưng sau một thời gian bạn lại nhầm lẫn hai khái niệm này với nhau.
Thứ Hai là ngày đầu tuần, bạn học được 20 từ vựng Tiếng Anh, nhưng chỉ đến cuối tuần bạn đã không thể nhớ nổi định nghĩa của chúng dù nhìn mặt chữ thì vẫn thấy “quen quen”.
Học trước quên sau khiến chúng ta dễ dàng rơi vào trạng thái hoang mang, mất động lực vì học nhiều nhưng chẳng nhớ được bao nhiêu. Tình trạng này trở nên tồi tệ hơn khi gần đến kỳ thi, ta thường sẽ chọn cách “học nhồi” để ôn tập một lượng kiến thức khổng lồ trong thời gian ngắn. Và rồi đâu lại vào đấy, ta tiếp tục quên hết kiến thức ngay sau khi kỳ thi kết thúc.
Vậy làm thế nào để chúng ta ghi nhớ những thứ mình học như cách ta nhớ về mối tình đầu? Những yếu tố nào làm nên một phương pháp học giúp chúng ta nhớ lâu?
MỞ đem đến painkiller cho bạn đây!
Liều thuốc cho trí nhớ
Khi nói về học cách học, không thể nào không nhắc tới cách hoạt động của trí nhớ.
Mô hình trí nhớ 🧠
Hai yếu tố quan trọng nhất là trí nhớ ngắn hạn (working memory) và trí nhớ dài hạn (long term memory).
Long term memory (LTM) là một nhà kho lưu trữ thông tin, có khả năng lưu trữ lượng thông tin lớn trong thời gian dài.
Khi bạn học một chủ đề mới, não bộ cũng bắt đầu hình thành kết nối giữa các neuron thần kinh. Càng luyện tập nhiều, chúng ta càng tăng sự liên kết này và dần dần hình thành các “con đường thần kinh cứng” (hard-wired pathways) in sâu trong não về cách thực hiện một kỹ năng cụ thể. Vì vậy muốn thông tin đi vào LTM đòi hỏi chúng ta phải ôn luyện rất nhiều nhằm tạo ra sự thay đổi trong cấu trúc não của mình.
Working memory (WM) có nhiệm vụ xử lý thông tin nạp vào (encoding), có khả năng lưu trữ thông tin trong thời gian ngắn.
Hãy tưởng tượng WM là một chú bạch tuộc với những chiếc xúc tu. Khi chúng ta học chủ đề nào đó cũng là khi bạch tuộc hoạt động hết công suất. Lúc này, bạch tuộc sẽ phải dùng những chiếc chân của mình để kết nối và truy hồi các thông tin đã được lưu trữ sẵn trong LTM. Giống như khi bạn làm bài kiểm tra, WM hoạt động bằng cách đưa những kiến thức bạn có trong LTM ra sử dụng để trả lời câu hỏi.
Hãy tưởng tượng WM là một chú bạch tuộc với những chiếc xúc tu. Khi chúng ta học chủ đề nào đó cũng là khi bạch tuộc hoạt động hết công suất. Lúc này, bạch tuộc sẽ phải dùng những chiếc chân của mình để kết nối và truy hồi các thông tin đã được lưu trữ sẵn trong LTM. Giống như khi bạn làm bài kiểm tra, WM hoạt động bằng cách đưa những kiến thức bạn có trong LTM ra sử dụng để trả lời câu hỏi.
Nếu chúng ta có càng nhiều thông tin có sẵn trong LTM liên quan đến chủ đề đó, WM lúc đó càng ít việc để làm. Ngược lại, khi học một chủ đề mới hoàn toàn, ít liên hệ với thông tin trong LTM, WM sẽ phải làm việc cật lực để cố gắng xử lí, liên hệ thông tin.
Hãy hình dung khi bạn học tiếng Anh, với những từ mới gặp, WM của bạn phải hoạt động rất nhiều để tìm cách ghi nhớ những từ mới đó. Trong khi việc bạn đánh răng hằng ngày dường như không cần sử dụng đến WM vì hành động này đã trở thành thói quen sau từ ngày tập cầm bàn chải đánh răng khi còn bé và lặp đi lặp lại suốt những năm qua. Những liên kết thần kinh về việc đánh răng đã được thiết lập trong LTM của bạn trong khi việc dùng những từ mới thì chưa có liên kết nào. Do đó, thời gian này khi bạn gặp những từ mới, bạn sẽ cần dùng đến WM rất nhiều.
Hay lúc bạn tập đi xe đạp lần đầu tiên, bạn cần vận hết công lực để giữ thăng bằng. Nhưng lần thứ hai rồi lần thứ ba tập đi xe đạp, WM của bạn cũng dần làm việc ít hơn lần đầu vì bạn đã phần nào quen với việc điều khiển chiếc xe đạp rồi, và não bạn đang bắt đầu hình thành các liên kết với việc đạp xe trong LTM. Và cứ như vậy cho đến khi bạn đạp xe vù vù, WM của bạn sẽ không cần hoạt động mỗi khi đi xe đạp nữa mà giờ đây, bạn có thể vừa đạp xe vừa nghĩ hôm nay ăn gì.
Nhớ dài nhớ dai 📑
Vậy làm thế nào để chúng ta tối ưu hoá khả năng hoạt động của não bộ trong quá trình xử lí và nhớ thông tin?
Cải thiện quá trình encoding
Nếu bạn còn nhớ, newsletter đầu tiên về quá trình xử lý thông tin ba bước gồm encoding (tiếp nhận), storing (lưu trữ) và retrieving (gợi nhớ). Để kiến thức được liên kết bền chặt hơn trong LTM và dễ dàng retrieve thông tin hơn, tại sao chúng ta không cải thiện việc học ngay từ quá trình bước đầu này nhỉ?
Để “boost” quá trình encoding, bạn có thể tận dụng thang Bloom (Bạn có đang làm chủ kiến thức?) và tương tác với kiến thức theo các tầng trên của thang Bloom như áp dụng, liên hệ, nhìn tổng quan, so sánh và phân tích giữa nhiều ý tưởng khác nhau thay vì dừng lại ở bước ghi nhớ và giải thích.
Lấy ví dụ khi học về khái niệm “ẩn dụ” và “hoán dụ” ở lớp Ngữ văn, thay vì học thuộc khái niệm một cách máy móc, bạn hãy thử tìm hiểu thêm về nguồn gốc, tác dụng của hai phép tu từ này, phân tích những ví dụ cụ thể sử dụng “ẩn dụ” và “ hoán dụ” hay so sánh với những biện pháp tu từ khác trong văn học. Bằng cách này, bạn đã “nâng cấp” kiến thức bạn nạp vào rồi đó!
Hãy học hiểu, đừng học vẹt.
Giảm công việc cho bạch tuộc
Có thể bạn đã biết, chúng ta thường không có khả năng nhớ luôn 1 lúc 10 chữ số điện thoại và thay vào đó chúng ta sẽ gộp 3 số, 3 số và 4 số.
Lí do cho điều này là cognitive load (tải trọng nhận thức) của chúng ta có giới hạn, chỉ xử lý được 4-7 nhóm thông tin một lúc. Khi chúng ta cố gắng học nhiều thứ cùng một lúc, vượt quá khả năng tải của bạch tuộc, ta rất dễ bị ngợp hoặc loạn thông tin do bạch tuộc lúc đó cũng đang “hoảng loạn" với lượng thông tin ta đưa vào. Điều này dẫn tới khả năng chúng ta sẽ khó xử lí lượng thông tin nạp vào và đưa chúng vào phần trí nhớ dài hạn.
Vì vậy thay vì “bóc lột sức lao động” của bạch tuộc với một lượng lớn thông tin khiến nó bị quá tải, bạn có thể:
Giải phóng bộ nhớ
Lưu trữ thông tin ở một “bộ não” khác để não bạn không cần giữ những thông tin đó nữa. Và ghi chú có thể đóng vai trò “bộ não thứ hai” này.
Ghi chú không chỉ giúp chúng ta sắp xếp và hệ thống hóa các thông tin nữa, mà còn hỗ trợ giảm tải cognitive load cho WM. Ghi chú giúp lưu trữ các kiến thức của mình ở một kho tàng lưu trữ khác ngoài não để sau đó ta có thể suy nghĩ, tư duy thêm về những gì mình đã viết.
Nhưng thông tin ở trong ghi chú chưa chắc đã ở trong LTM vì đưa thông tin vào LTM yêu cầu một quá trình đào sâu, suy nghĩ nhiều về thông tin đó. Vì vậy, điều quan trọng là bạn phải thường xuyên đọc lại và tương tác với ghi chú của mình thay vì chỉ ghi chú xong và “bỏ xó”.
Giảm lượng tăng chất
Chunking là một phương pháp giúp tối ưu hoá khả năng làm việc của WM. Chunking giúp chúng ta bẻ nhỏ một chủ đề lớn thành các thông tin nhỏ và sau đó gộp chúng thành các các tổ hợp thông tin (chunks). Do khả năng lưu trữ có hạn của WM, chunking giúp việc học một chủ đề lớn bớt đáng sợ cho não của chúng ta. Thay vì phải học hết rất rất nhiều những thông tin nhỏ, chúng ta có thể học từng chunk một và cứ tiếp tục quá trình chia nhỏ cho đến khi bạn nắm vững chủ đề kiến thức.
Khi chúng ta học một chủ đề mới và cố gắng master từng các chunk nhỏ, chúng ta dần dần sẽ hoàn thiện được bức tranh toàn diện về chủ đề đó và tránh việc bị lạc lối trong “khu rừng thông tin”.
Hãy thử áp dụng với việc học từ vựng của một ngoại ngữ mới. Bạn có thể chunk từ vựng theo từng ngữ cảnh hay chủ đề khác nhau để học trong bốn ngày:
Ngày 1 học về từ vựng về chủ đề trường lớp
Ngày 2 học về từ vựng liên quan đến phương hướng
Ngày 3 học về từ vựng để dùng khi đi mua sắm
Ngày 4 học về ngữ pháp, cấu trúc của một câu hoàn chỉnh và ghép từ vựng của các ngày trước vào để tạo câu.
Mục đích của chunking chính là “giảm lượng tăng chất”. Giảm lượng để “đánh lừa” bộ não rằng nó chỉ cần học bốn mẩu kiến thức mới thôi và nó sẽ không bị ngợp. Dần dần khi tăng số lượng thông tin của một chunk lên, ta không những hiểu sâu hơn về từng chunk mà còn bắt đầu thấy được sự liên kết giữa các chunks với nhau hoặc giữa một mẩu thông tin trong chunk này với mẩu thông tin trong chunk khác.
MỞ-mang
Bài viết của Thủy Ngô (học viên khóa HCH 3) về trí nhớ và quá trình học Làm thế nào để tự học hiệu quả (phần 1)
Tìm hiểu thêm về chunking qua
Bạn có thắc mắc gì về số newsletter này không? Cho MỞ nghe quan điểm của bạn nhé!
Để “pain-killer” đạt được sức mạnh tối đa, hãy subscribe newsletter của Học Cách Học by MỞ nhé!